Phan văn SONG
Mẫu “xã hội Âu Mỹ” càng ngày càng gặp nhiều khó khăn. Các quốc gia “đang vươn lên” tiên liệu khôngthể chạy theo mẫu xã hội phương Tây, vì chẳng chóng thì chầy sẽ gặp tình trạng đổ vỡ. Càng đổ vỡ nhanh hơn là những “chặng đường phát triển” thường bị đi tắt vì thiếu củng cố các “hạ từng cơ sở”. Cảnh em bé chăn trâu, “ngồi mình trâu tay cầm cờ lau, tay cầm cell phone đấu láo” ở quê Việt Nam. Nói tóm lại, bé chăn trâu sử dụng đìện thoại di đông để nói chuyện với bà nội đang đi du lịch ở Mỹ thăm bà con sẽ là chuyện bình thường.
Hu Tsin Tao, lãnh đạo Trung quốc trong một bài diển văn vừa qua cũng mong đem lại Trung quốc tương lai một xã hội hài hòa, vì cảm nhận cái phát triển không đồng nhịp của xã hội Trung quốc hiện nay sẽ là một cái nạn cho tương lai.
Thế giới xã hội “Âu Mỹ”, mẫu mực phát triển của các nước “đang đi lên” hiện gặp nhiều vấn đề nan giải, đặc biệt ở Âu châu, như vừa qua ở Pháp. Sự “cùng sống chung”, nơi “gặp gỡ” của nhiều cộng đồng trong một xã hội đa văn hóa, đa chủng tộc, đem lại những đụng chạm, tranh chấp khó giải quyết: tranh chấp giữa các cộng đồng, tranh chấp giữa những thế hệ, tranh chấp giữa những tôn giáo, tranh chấp giữa xóm nhà giàu và xóm nhà nghèo, giữa trung tâm thành phố và ven đô. Và nguy hiểm hơn, là sự tranh chấp giữa giai cấp những thành phần có tổ chức, có kỷ luật, của những người đang có việc, đang làm việc tạo phồn vinh, tạo cuộc sống an cư, tạo của cải sự nghiệp với một hệ thống an ninh, nói tóm lại, đó là giai cấp đại diện cho xã hội và giai cấp của thành phần ven đô, xóm nghèo vô công, vô nghề, vô gia cư, đại diện giai cấp “ngoài xã hội”. Càng khó giải quyết hơn, khi chế độ bảo hiểm bao cấp, che chở bởi một “quan niệm Nhà nước Bao Dung Mẫu Tử, nuôi tất cả đàn con”, quên rằng đó chỉ là “một tổ chức liên đới” do những người “đang làm việc”, “sản xuất” nuôi toàn bộ quần chúng của đất nước, bao gồm những người tỵ nạn mà Nhà nước đã phải bất đắc dĩ cưu mang, kể cả những di dân nhập cư bất hợp pháp mà chẳng có ai chịu trách nhiệm.
Mẫu xã hội đó với các nhức nhối triền miên ấy, ngày nay không ai dám nói đến. Nhà cầm quyền cố giải quyết như “một tệ nạn xã hội”, còn phe tả chống đối thì xem đấy là “một sai lầm quản lý”, đã làm nảy sanh ra bất công xã hội. Họ cố tình tìm cách khai thác nhằm phá hoại, chỉ trích, chê bai chánh phủ và phe cầm quyền. Đáng lý ra, họ phải phụ một tay giúp cáng đáng công việc, trong khi luật rừng hiện diện khắp các thành phố do cả hai phía tả hữu, kể cả Đảng cộng sản Pháp quản lý.
Mẫu xã hội ấy sai !
Ta thử đi tìm những quan điểm, những lý thuyết xã hội để xoa dịu tất cả những đụng chạm, để có thể “sống chung”. Thử tìm một mẫu suy nghĩ phát triển để thế giới đa văn hóa, đa cực có thể “sống chung cùng phát triển” đem thạnh vượng và phúc lợi cho toàn nhơn loại.
Nhơn đọc Frédéric Bastiat, (1801 -1850) một nhà nghiên cứu kinh tế Pháp đã lập ra trường phái “tư bản lạc quan”(capitalisme optimiste) trái hẳn với Malthus và Ricardo. Bastiat chống những rào cản thuế quan bảo vệ kinh tế (protectionnisme) , Bastiat chống xã hội chủ nghĩa bao cấp kiểu Proudhon, Bastiat đề nghị một cái nhìn khác, một “mẫu xã hội khác”. Chúng tôi xin tóm tắt và trình bày những nét chánh của cái nhìn khác ấy. Cái nhìn được Bastiat đặt tên là “Những hài hòa xã hội” để tiến đến “Một xã hội hài hòa”.
Sau đây là vài ý kiến của Frédéric Bastiat trong “Những hài hòa xã hội” (Harmonies sociales) vừa được xuất bản trở lại.
1.- KHÔNG TƯỞNG HAY TIÊN TRI.-
Kinh tế gia Frédéric Bastiat là một triết gia về sự hài hòa. Bastiat nghĩ rằng, để cùng “sống chung”, để “xã hội hoá”, con người sẽ đi đến những giải pháp “hài hòa”, “thương lượng” để đáp ứng cho tất cả những nhu cầu thoạt tiên nghịch nhau, mâu thuẫn hẳn với nhau. Quan niệm triết lý của Bastiat là một sự “hổ tương”, và cũng là “một liên đới của những đối nghịch”. Chúng ta chỉ được thỏa mãn trong đời sống của mỗi chúng ta khi chúng ta tìm đáp số được cho sự sung túc chung của xã hội, nghĩa là sự thỏa mãn của những người khác. Chúng ta chỉ hưởng được phồn vinh trong một xã hội hoàn toàn đầy phồn vinh.
“Mỗi chúng ta, khi làm việc cho riêng cá nhơn chúng ta, đó thực sự là chúng ta đang phục vụ cho toàn thể các cá nhơn của toàn xã hội ”.
Đây là một cái nhìn có “tình người” của thuyết “Phân phần hành” (division du travail) của Adam Smith đó thôi. Adam Smith quan niệm dùng sự bổ túc giữa những công tác, những phần hành và kỹ thuật cá nhơn bổ khuyết lẫn nhau để tạo điều kiện tốt nhứt cho sản xuất.
Tạo sản xuất là tạo phồn vinh cho xã hội.
Bastiat cũng nghĩ đến những khác biệt kỹ thuật cá nhơn, nhưng tất cả phải phục vụ cho “con người” tức là thỏa mãn nhu cầu của mỗi cá thể, mỗi con người. Sự đa dạng của nhu cầu cá thể sẽ là đáp số của sự đa dạng của kỹ thuật cá nhơn. Nói tóm lại, Bastiat đặt vai trò “con người ” lên hàng đầu, quan trọng hóa vai trò “tiêu thụ” của con người.
2.- TỪ KINH TẾ SẢN XUẤT ĐẾN “KINH TẾ PHỤC VỤ”.-
Quan điểm của Bastiat ngày nay lại càng sáng tỏ hơn bởi hiện tượng hoàn cầu hóa, và thế giới đã nói đến “chỉ số sản xuất”.
Nhưng các sản phẩm ngày nay phải có tính cách “thương mãi”, và “thị trường” (marchande et commerçante) trước tính cách kỹ thuật.
Những thị trường mới là những thị trường với hàng triệu người tiêu thụ những hàng hóa đại chúng. Đó là những cuộc chạy đua mới, những thách thức mới, với những mục tiêu mới là “người tiêu thụ”, là “thị trường”. Chiếc máy bay chiến đấu Rafale của Pháp, hiện đại nhứt, kỹ thuật tân kỳ nhứt, ngày nay vẫn không bán được, vì không “đại chúng”.
Hôm nay, chính dân chúng của các quốc gia “đang vươn lên” đang làm đầu tàu kéo sự phát triển của toàn thế giới, vì hơn một nửa dân chúng thế giới (là dân chúng của “các nước đang vươn lên”) đang học và muốn sống thoải mái, sống sung túc (theo mẫu Âu Mỹ), và để sống sung túc hơn, họ đang sẵn sàng làm nhiệm vụ “phục vụ” cho phân nửa dân chúng còn lại của thế giới. Và số “phân nửa còn lại” đó, nếu muốn bảo tồn cuộc sống sung túc đang có của ngày hôm nay, thì phải tổ chức làm ăn thế nào để đáp trả “phục vụ” lại cho những khoản “phục vụ” của số “phân nửa” kia. Đó, là cách có qua có lại đấy thôi !
Hôm nay sản xuất là phục vụ, và thương nghiệp là trao đổi phục vụ với phục vụ.
3.- MẪU TỔ CHỨC XÃ HỘI TÂY PHƯƠNG:QUÁ ĐẶT TRỌNG TÂM VÀO CÁC NHÀ SẢN XUẤT.-
Chính vì vậy, trong cơ chế sơ đồ tổ chức thương nghiệp hoàn cầu hoá của ngày hôm nay, mẫu tổ chức Xã hội Tây phương hoàn toàn lỗi thời. Vì cơ chế tổ chức Xã hội Tây phương từ hai thế kỷ nay đặt trọng tâm về khâu sản xuất và các nhà sản xuất. Từ ngày cách mạng kỹ nghệ giải thoát đời sống nông dân đến ngày cái đối nghịch là cách mạng cộng sản với đấu tranh công nhơn ra đời, các dữ kiện đều phát xuất từ khâu sản xuất là chủ yếu.
Tất cả những câu hỏi về xã hội, rất còn thời “thế kỷ thứ 19”, đặt dưới từ ngữ “điều kiện làm việc của công nhơn”. Sự thực, ngày nay đáp số các “điều kiện làm việc của công nhơn” không thích ứng nữa; động cơ mới phải là “mãi lực của công nhơn” và “chỉ số và điều kiện lương bổng của công nhơn”.
Xã hội Tây phương ngày nay vẫn còn phải giải quyết những mâu thuẫn, và tranh chấp giữa các thành phần của khâu sản xuất, các thành phần ấy vẫn tạo nên những giai cấp đấu tranh khác nhau, và có mâu thuẫn cùng tranh chấp khác nhau:
- thành phần tạo việc làm (chủ nhơn đề án, dự án)
- thành phần tạo vốn (tư bản tài chánh, chủ nhơn)
- thành phẩn làm việc (công nhơn)
- thành phần chuyên viên sáng tạo.
ĐỂ GIẢI QUYẾT.-
- Một xã hội không có giai cấp ?
Không có giai cấp, không còn tranh chấp và không còn đấu tranh.
Thiên đường Cộng sản ? Giải pháp tập thể, cộng sản chủ nghĩa nay đã hoàn toàn thất bại. Giai cấp Đảng viên nomenklatura thống trị và tước đoạt táo bạo (cải cách ruộng đất ...) hơn giai cấp tiểu tư sản, và nhanh chóng biến thành độc tài toàn trị, đã sụp đổ hoàn toàn.
- Thực tiển hơn, giải pháp đối thoại và thương thuyết.
Giải pháp xã hội Âu Mỹ là tổ chức một cuộc đối thoại thường trực giữa các giai cấp.
Công nhơn hợp thành Nghiệp đoàn. Chủ nhơn thành các Hiệp hội chủ nhơn. Và các cuộc thương thuyết, các cuộc gặp gỡ nhằm đem lại những giải pháp tổ chức cuộc “sống chung”. Vai trò Nhà Nước chỉ làm trọng tài, tạo một cái sườn pháp lý, một cái khung đối thoại, và nếu cần, dùng “uy tín” để “phán những giải pháp”, những kết luận.
Thế nhưng, bức tranh lý thuyết này không tồn tại mãi mãi. Thực tế của “giòng sông kinh tế”, và “đời sống xã hội” đem lại rất nhiều khó khăn. Khi trọng tài biến thành chủ nhơn, mà lại là chủ nhơn ông số 1, khi nghiệp đoàn không đủ thành phần đại diện (túc số kém) hay không đủ tư cách đại diện (bị mua chuộc, hay do chính chủ nhơn tổ chức - nghiệp đoàn tư, nghiệp đoàn của Mặt trận Tổ quốc VN), ... mất uy tín, mất tín nhiệm của công nhơn, và cuối cùng, hiện tượng quan trọng là sự vắng mặt của thành phần quan trọng nhứt: “người tiêu thụ”. Vì, ngay cả đến ngày hôm nay, trong tất cả những đối thoại hay thương thuyết không có một đại diện người tiêu thụ. (Raph Nader, đầu những năm 60 có nghĩ đến một “phong trào người tiêu thụ” nhưng đó chỉ là một ngọn lửa nhỏ vừa sớm nở tối đã tàn).
Trong những cuộc đình công cuối năm 2007 ở Pháp, các Công đoàn sở Hỏa xa Pháp, và “Hệ thống chuyên chở công cộng vùng Paris”, đã sử dụng “người tiêu thụ” như những “con tin” để làm “khó dễ” và “mặc cả” với Chánh phủ Pháp (đình công 9 ngày trong tháng 11/2007, những đình công 2009 đòi bồi thường ...).
SỰ THẬT CỦA VẤN ĐỀ ?
Sự thật là những tranh chấp, những giai cấp được đặt ra, không đúng chỗ.
Có thể nói rộng, là xã hội ngày nay không có giai cấp. Mỗi chúng ta đều vừa là nhà sản xuất vừa là người tiêu thụ. Chúng ta đòi tăng lương bổng, nâng cao thu nhập, nhưng chúng ta sẽ nhăn mặt than khổ khi vật giá leo thang, gạo xăng lên giá. Chúng ta sợ thị trường cạnh tranh, nhưng chúng ta tiếp tục đi mua hàng rẻ nhờ cạnh tranh nên có phát mãi.
Dĩ nhiên những đụng chạm, tranh chấp quyền lợi các thành phần trong sản xuất vẫn có và phải có, nhưng chúng ta có cần phải đi đến “đấu tranh giai cấp” để giải quyết chăng ?
Con người của những xã hội văn minh đã nghĩ đến bản “Khế ước”, đã biết thế nào là “dàn xếp”, “hòa giải”, và thế nào là “thị trường”.
Kinh tế thị trường khác biệt hẳn với “luật rừng”. Luật rừng là luật của kẻ mạnh, và phá vỡ những quan điểm của những người có thiện chí. Tại sao “cầm quyền” lại đồng nghĩa với “đàn áp những ai có quan điểm khác mình” ?
Bastiat đề nghị một xã hội hài hòa với thương thuyết, thương lượng, hòa giải, dàn xếp thay cho tranh chấp quyền lực, đấu tranh giai cấp, một khế ước với những quy định “chung sống”, những giải đáp nhỏ cục bộ, đa dạng, cho những vấn đề lớn.
Cái nhìn sai của chế độ xã hội Âu Tây là quên cái quan điểm “khế ước” (contrat) mà chỉ nghĩ đến “luật lệ - quy định”. (règlementations)
“Khế ước” là tinh thần làm luật, là tinh hoa của luật, là cái “dàn xếp”, “cái ngoéo tay”, cái chữ “tín” giữa hai người. Đó là luật chơi giữa hai đối tượng, trọng nhau, tin nhau. Win – Win. Synallagmatique. Lưỡng lợi.
Còn Luật lệ - Quy định, là văn bản, viết thành văn, thành luật, gò bó, chấm phẩy, trung ương tập quyền.
Vì Âu Tây nhiều quy định, nhiều luật, nhiều lệ, nên người Âu Tây và xã hội Âu Tây ngày nay bị nạn Nghiệp đoàn hóa (corporatisme) và Viên chức hóa hay Cửa quyền hóa (bureaucratie).
Những nơi đáng lý phải sử dụng lý lẽ ôn hòa, thông cảm giải quyết, nay chỉ còn có luật lệ xơ cứng, tranh chấp dằn co.
4.- XÃ HỘI HÀI HÒA: CÔNG THỨC ?
Người là một con sói của người. Homo homine lupus - Thomas Hobbes (1588 – 1679) đã nhận đình như thế. Con người không phải ai ai cũng đều “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện” cả. Hể có dịp đè người hàng xóm là họ làm ngay.
Bastiat vẫn biết như vậy, nhưng Bastiat nghĩ rằng con người dễ hướng thiện.
Tạo những điều kiện để hướng thiện, con người sẽ hướng thiện.
Những điều kiện ấy gồm có:
- quyền tư hữu,
- tinh thần trách nhiệm và
- tinh thần tương thân liên đới.
Quyền tư hữu và tinh thần trách nhiệm, đi chung với tinh thần Tự do cá nhơn.
Đó là những điều kiện tiên quyết để đưa mỗi cá nhơn chúng ta trau giồi nhơn cách, phát huy tài năng, chấp nhận những sai trái để củng cố những tiến bộ.
Tình tương thân liên đới (solidarité) là một tình thương tương trợ lẫn nhau của một xã hội có tổ chức, lá lành đùm lá rách. Biết chia xẻ nổi vui nỗi buồn, hoạn nạn có nhau là một cử chỉ tự nhiên của con người. Bastiat nói rất nhiều về những tổ chức liên đới, về những tổ chức bảo hiểm. Phân tách nhận định của Bastiat rất hợp thời, hợp cảnh, nhứt là khi Bastiat tỏ ý lo ngại khi tình tương trợ liên đới và tinh thần trách nhiệm bị lạm dụng và phá sản bởi một chánh sách Nhà Nước Bao Dung (Etat – Providence) – như nước Pháp ngày nay.
Đấy là một chánh sách quản lý ngu dân xem dân chúng như những đứa bé ngây ngô khờ dại, còn những người và cơ quan quản lý đầy quyền lực là những gia trưởng trịch thượng.
Để kết luận, một xã hội hài hòa là một xã hội do những người có tự do hành động, có trách nhiệm, có tinh thần tập thể tương trợ liên đới tổ chức và điều hành.
Phải nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ giáo dục, đạo đức xã hội, các cơ chế tổ chức phải biết dung hòa, không xúi giục kẻ mạnh đấu tranh giành giựt, cũng không che chở người yếu kém để đưa đến sự sống bám. Bastiat lúc nào cũng lạc quan: Bastiat tin tưởng vào tính hướng thiện của con người.
Mong một quê hương Việt Nam của những người đầy thiện chí ! Mong một quê hương Việt Nam của những người có dân chủ, có Tự do hành động, có trách nhiệm, có tình thương tập thể liên đới, thực sự yêu quê hương, thực sự yêu NGƯỜI Việt Nam ! Hồi Nhơn Sơn mùa Thu 2009.
Phan Văn Song