Dưới đây là bài trả lời trên nhật báo La Repubblica (Italia) của nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, nguyên Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorrbachov nhân kỷ niệm 20 năm ngày sụp đổ Bức tường Berlin. Gorrbachov sẽ đến Italia vào giữa tháng 10 để tham dự một hội thảo quốc tế do Diễn đàn chính trị thế giới (WPF) mà ông làm chủ tịch tổ chức để nhìn lại sự kiện lịch sử này.
20 năm sau, Mikhail Gorrbachov hồi tưởng lại những sự kiện đã xảy ra mà ít người biết đến trong sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Ngồi trong phòng làm việc của mình ở Moscow, ông nói về những diễn biến của ngày ấy với một sự bình thản. Nhưng bản thân những lời nói của ông lại toát ra biết bao nhiêu tình cảm, sự hài lòng và cả những uất ức về những gì ông đã chứng kiến trong các năm 1988 và 1989, những năm tháng không thể nào quên đã tạo ra một phần của lịch sử thế kỷ 20. Ông nhớ lại những người dân Berlin đã hướng về phía ông mà kêu lên “Gorby”, hãy ở lại cùng với chúng tôi”, “Gorby tự do”. Ông nhớ lại những cuộc gặp mặt với các đảng cộng sản Đông Âu khác trong thời điểm lịch sử thế giới chuẩn bị sang trang mới, những cuộc điện đàm kéo dài với Thủ tướng Đức Helmut Kohl, với “đồng chí” Erich Honecker, người đứng đầu đảng cộng sản Đông Đức, những cuộc chiến nhằm duy trì “perestroika” (sự cải tổ chế độ kinh tế và chính trị của Liên Xô) trong đảng cộng sản Liên Xô và cả những nỗ lực của phương Tây trong việc ngăn chặn quá trình thống nhất nước Đức. “Tất cả đều chống lại tiến trình ấy. Thatcher khẳng định điều đó từ London, Mitterrand từ Paris, Andreotti từ Roma. Họ sợ. Họ muốn ngăn chặn người Đức thống nhất thành một quốc gia hùng mạnh trở lại và họ chờ đợi Liên Xô đưa xe tăng vào Đức cùng với quan lính của Gorrbachov. Trong những cuộc gặp gỡ chính thức, tôi luôn nói thẳng thắn với họ, từng người một về vấn đề nước Đức thống nhất. Thậm chí Mitterrand còn đến gặp tôi ở Kiev. Về câu chuyện này, tôi xin nói thẳng, chỉ có 2 dân tộc anh hùng, là người Đức và người Nga.”
- Gorrbachov, từ khi nào ngài nhận thấy rằng đã đến thời điểm để nước Đức thống nhất?
- Lịch sử không thể diễn ra trong một ngày và tôi không thể chỉ ra chính xác một ngày cụ thể nào. Trên thực tế, sự sụp đổ của Bức tường Berlin chỉ là hồi chót của một quá trình đã diễn ra từ rất lâu. Khi Liên Xô bắt đầu tiến hành một loạt thay đổi mang tính bước ngoặt, như tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên, thì ở các nước Đông Âu khác, những cuộc cách mạng đầu tiên cũng diễn ra, theo cả cách êm đẹp và không êm đẹp, khi bắt đầu tiến trình giải trừ quân bị giữa Mỹ và Nga để chấm dứt Chiến tranh Lạnh, với việc tháo bỏ các đầu đạn hạt nhân, thì chúng tôi đứng trước một thực tế hết sức buồn bã, là nước Đức, chỉ nước Đức, đang đứng trước con đường lịch sử. Người Đức cảm thấy bị xúc phạm. Và tôi hiểu điều đó.
- Theo ngài, đâu là thời điểm bắt đầu cho việc tái thống nhất nước Đức?
- Chúng ta đang nói về năm 1988. Đấy là lúc ở Đức bắt đầu xuất hiện những cuộc biểu tình đầu tiên. Tại Moscow, chúng tôi nhận được các tin tức nói rằng các công dân Đông Đức đang tìm cách sang Cộng hòa Liên bang Đức thông qua ngả biên giới Hunggari, lúc đó đã mở cửa biên giới với Áo. Điều tương tự cũng xảy ra với đại sứ quán Đức ở Ba Lan và Tiệp Khắc, nơi mà người Đông Đức có thể xin tị nạn chính trị dễ dàng hơn. Số người làm đơn xin sang Tây Đức theo dạng này ngày càng lên cao và tới một con số khổng lồ vào mùa Hè năm 1989. Những điều đó xảy ra trước khi báo chí nắm được tình hình, rất lâu trước khi Hans-Dietrich Genscher (ngoại trưởng Đức bấy giờ) tuyên bố tại Praha, Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia), rằng nước này sẽ mở cửa biên giới với Cộng hòa liên bang Đức. Lịch sử đã được viết theo cách ấy và các sự kiện tiến triển theo từng ngày, với 2 khả năng duy nhất xảy ra, hoặc là chúng ta tìm cách để chế ngự chúng và phát triển theo ý chúng, hoặc là chúng ta bị chúng cuốn trôi.
- Như vậy là vào lúc đó, ngài cho rằng việc thống nhất nước Đức là không thể tránh khỏi?
- Những gì mà tôi biết được vào cuối năm 1988 là đã quá muộn để ngăn chặn các sự kiện này lại. Người Đông Đức không hề có ý định chấm dứt các cuộc biểu tình để trở về nhà và họ đấu tranh đến cùng, cho đến khi đạt được mục đích mới thôi. ngày 26/1/1989, trong khi ở Berlin đang diễn ra những cuộc biểu tình mới, tôi triệu tập một cuộc họp khẩn cấp của trung ương đảng cộng sản Liên Xô mở rộng, với sự có mặt của các đại diện tướng lĩnh quân đội, để hỏi ý kiến của họ. Tất cả cùng thống nhất rằng người Đức sẽ không chịu buông xuôi và họ không còn tuân lệnh của Liên Xô nữa.
- Đảng cộng sản Liên Xô không cảm thấy sợ hãi trước sự thống nhất của nước Đức sao?
- Đấy là một thời điểm hết sức nóng bỏng. Trong đảng nổ ra những cuộc đấu tranh nảy lửa chống lại tôi và chống lại perestroika. Lúc đó, hàng loạt cải cách về chính trị cũng như những cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của chúng tôi được đưa ra bàn luận. Năm 1989, trung ương đảng họp ngay sau khi diễn ra cuộc bầu cử vào tháng 3 với kết quả rất đáng chú ý, là bầu cử tự do, danh sách ứng cử từ 7 đến 27 thành viên, thay vì một cái tên duy nhất như trước đây. Lần đầu tiên tất cả các tổ chức và lực lượng chính trị đưa ra các ứng viên của họ và cuối cùng, 35 bí thư ở các vùng của đảng không trúng cử. 84% các nghị sĩ quốc hội Liên Xô là đảng viên đảng cộng sản. Trong cuộc họp ấy, trung ương đảng không chấp nhận cho nước chúng tôi cũng như các quốc gia khác cấu thành khối các quốc gia trong hiệp ước Vacsava, có thể quyết định quyền tự chủ nếu như thay đổi những người lãnh đạo. Đấy là cơ hội để những người chống đối trong đảng đứng lên chống lại những cải cách chính trị và coi đó như là những đe dọa chết người đối với họ, và họ chống đối rất quyết liệt. Họ đã từng im lặng trong một thời gian dài, vì không có đủ can đảm để bước lên đấu tranh. Rất nhiều lần tôi đã phải dùng nắm đấm để đập lên bàn nhằm giữ trật tự.
- Thế còn những nhà lãnh đạo Đức thì sao?
- Năm 1989, tôi sang Đức 2 lần. Tháng 6/1989, tôi sang Bonn và gặp Kohl. Đó là một cuộc nói chuyện rất chân tình. Các nhà báo có hỏi tôi về việc liệu chúng tôi có bàn với nhau về các sự kiện xảy ra trên đất Đông Đức không. Dĩ nhiên là chúng tôi có thảo luận về điều ấy, nhưng chúng tôi không quyết định điều gì cả. Đấy không phải là một vấn đề có thể bàn bạc trên bàn. Chính lịch sử sẽ phán xét chúng tôi. Khi nào ư? Tôi và Kohl cùng đưa ra câu trả lời cứ như là chúng tôi cùng một lúc nhất trí với nhau về điều ấy: không phải thế kỷ 21. Tuy nhiên, các sự kiện đi theo một con đường khác. Điều mà chúng tôi thấy rõ ràng là không thể ngăn cản được những gì xảy ra trên đất Đức. Kohl đã gọi điện cho tôi nhiều lần và câu hỏi mà tôi luôn nghe là “Chúng ta phải làm gì đây?”. Tôi nói với ông ấy: “Ngài cứ bình tĩnh và không được làm bất cứ điều gì manh động, nếu không chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn đấy”. Chính vào lúc ấy, ông ấy đưa ra 10 điểm bàn về việc để cho 2 nước Đức sát lại gần nhau, với một loạt lộ trình quan trọng cho việc thống nhất. Ở Moscow, chúng tôi không cảm thấy hào hứng lắm với việc làm của Kohl, nhưng chúng tôi hiểu là việc tiến hành bầu cử ở nước Đức thống nhất sau này đã buộc ông ấy phải hành động.
- Ngài thấy điều gì khi đến Berlin?
- Tôi tới Berlin vào ngày 6/10/1989, để kỷ niệm 40 năm ngày thành lập nước Cộng hòa dân chủ Đức. Tôi còn nhớ là vào lúc đó, tôi nhận thấy một bầu không khí bất ổn. Quyền lực của đảng đã không còn giúp họ kiểm soát được đất nước nữa. Đấy là một thực tế được thừa nhận, chưa nói gì đến các vấn đề có liên quan trực tiếp đến Bức tường Berlin. Có cảm giác là người Đức cảm thấy dường như mình đã bị bỏ rơi và lãng quên, chỉ riêng họ thôi, trong khi thế giới xung quanh đã thay đổi nhanh chóng, mà điều ấy thì bức tường lại ra sức ngăn cản. Người dân không còn chịu đựng được nữa. Từ nhiều tháng trước đó, các quảng trường luôn chật cứng những người biểu tình chống chế độ. Khi tôi sang đó, trong những sự kiện được tổ chức nhân 40 năm quốc khánh Đông Đức, có cả Fackelzug, lễ rước đuốc tuần hành, với sự tham gia của các đại diện từ 28 vùng trong cả nước. Đứng trước tôi có một nhóm thanh niên trẻ trung gào lên bằng tiếng Đức, “Gorrbachov, hãy ở đây một tháng nữa thôi”, “Gorby, tự do”. Thủ tướng Ba Lan Tadeusz Mazowiecki đến gặp tôi và nói: “Mikhail Sergeevich, ngài có hiểu tiếng Đức không?”. Tôi trả lời: “Đọc hiệp định bằng tiếng Đức thì khó, chứ những gì mà họ gào lên với tôi, tôi hiểu cả”. Ông ấy trả lời: “Thế thì bây giờ ngài sẽ hiểu rằng đấy chính là sự kết thúc”.
- Có đúng là Honecker đã tiết lộ với ngài một trong những rắc rối lớn nhất của ông ta không?
- Tôi đã gặp ông ấy trong những ngày đó và nói chuyện khá dài, ít nhất là 3 tiếng. Tôi quan sát ông ấy khá kỹ và tôi cảm thấy ông ấy không ổn lắm, tôi có cảm giác là dường như tất cả không hiểu được sự vĩ đại của những sự kiện đang xảy ra quanh họ, không biết được những gì mà họ phải đối đầu ở phía trước. Chính vì thế, ngày hôm sau, tôi đề nghị được gặp tất cả các ủy viên trung ương đảng cộng sản Đông Đức. Tôi không buộc tội ai cũng như không buộc ai phải phản ứng. Trung thành với nguyên tắc mà tôi đã chọn, tôi kể lại cho họ nghe về perestroika, về việc tại sao và như thế nào mà trong một số trường hợp, chúng ta đưa ra những quyết định chậm trễ khiến phải trả giá đắt và nếu ngược lại thì như thế nào. Trong một số trường hợp, chúng ta lại tỏ ra quá vội vã, tự đẩy chúng ta vào những tình huống hết sức khó khăn. Tôi nói rằng để nắm bắt được tiến trình đang xảy ra, cần phải hết sức thông minh. Thế rồi bài nói chuyện hôm đó trở nên nổi tiếng, và được đúc kết lại thành công thức “Ai đến chậm, lịch sử sẽ trừng phạt người đó.”
- Mikhail Sergeevich, các nhà lãnh đạo châu Âu phản ứng như thế nào. Họ muốn duy trì sự tồn tại của Bức tường Berlin ư?
- Ngoại trừ Mỹ ra, tất cả đều phản đối. Thacher khẳng định là bà không ủng hộ. Bà không nói điều này một cách công khai, mà nói trong một cuộc gặp chính thức với tôi. Andreotti chống lại và đặc biệt Mitterrand chống kịch liệt. Ông nói: “Tôi yêu nước Đức rất nhiều. Tôi muốn cứ duy trì hai nước Đức cùng lúc. Tất cả các nhà lãnh đạo Âu châu đều sợ, nhưng họ lại không đưa ra được bất cứ đề xuất nào về việc làm sao để đối phó với tình hình. Tôi nói rõ với họ là tôi muốn bức tường sụp đổ và nước Đức cần thống nhất, nhưng họ muốn chúng tôi ngăn cản họ lại, bằng quân đội của Gorbachov. Tất cả đều đến gặp tôi, từng người một, và yêu cầu một cách công khai. Mitterrand thậm chí còn sang tận Kiev để bàn bạc với tôi về vấn đề này.
- Ngài có hối hận điều gì không?
- Tôi đã nghĩ đến điều này hàng nghìn lần trong những năm qua, rằng điều gì có thể sẽ xảy ra, nếu như quân đội và xe tăng sẽ rời trại để lên đường đến Berlin. Chắc chắn sẽ có đổ máu. Thế chiến thứ 3 có thể sẽ tới. Tôi bây giờ có thể tin chắc vào điều đó. Phần còn lại, thì tôi đã nói ngay từ đầu, với lãnh đạo các nước trong khối Vácsava, rằng Liên Xô sẽ không can thiệp vào nội tình nước họ. Họ có thể không tin tôi, nhưng tôi luôn giữ lời. Chúng tôi không hề nhúng tay vào bất cứ việc gì liên quan họ. Và đấy chính là bi kịch lớn của họ